Bệnh viện Nhi Hà Nội vừa tiếp nhận một bệnh nhi 6 tuổi bị nhiễm trùng nặng, sốc nhiễm khuẩn sau va đập ở đầu gối.
Dù không có tổn thương trên da nhưng vẫn bị nhiễm trùng
Theo ThS.BS Nguyễn Đăng Bằng, khoa Ngoại Tổng hợp, Bệnh viện Nhi Hà Nội, bệnh nhi 6 tuổi nhập viện trong tình trạng sưng đau khớp gối, cẳng chân phải và sốt cao liên tục. Trước đó vài ngày, trẻ bị va đập ở gối và cẳng chân, không có trầy xước da.

Các bác sĩ can thiệp điều trị cho trẻ. Ảnh: BVCC.
Sau va đập, dù không có tổn thương trên da nhưng gối và cẳng chân của trẻ xuất hiện sưng. Khi trẻ bắt đầu sốt, tình trạng nặng lên nhanh chóng. Sau 2 ngày, trẻ sốt cao liên tục, chân sưng to nhanh, hạn chế vận động, không đi lại được. Trước tình thế nguy cấp, gia đình đã đưa trẻ vào viện.
Tại bệnh viện, sau khi thăm khám, trẻ được chẩn đoán nhiễm trùng nặng, sốc nhiễm khuẩn do tụ cầu vàng, với ổ nhiễm trùng ban đầu tại vị trí khớp gối và cẳng chân phải. Sau khi hồi sức tình trạng toàn thân ổn định, trẻ đã được can thiệp ngoại khoa, kết quả: Viêm mủ khớp gối, viêm xương tủy do tụ cầu vàng.
Viêm xương tủy là một bệnh nhiễm trùng nặng
ThS.BS Nguyễn Đăng Bằng cho biết, viêm xương tủy là một bệnh nhiễm trùng nặng, có thể nguy hiểm đến tính mạng nếu không được can thiệp điều trị kịp thời. Đây là một trường hợp rất điển hình. Nhiễm trùng thường theo đường máu mà không cần có vết thương hở và diễn biến cực kỳ nhanh.
"Chấn thương có thể là yếu tố cơ hội và thúc đẩy tình trạng nhiễm trùng nặng lên, dẫn đến các biến chứng nguy kịch như sốc nhiễm khuẩn, viêm mủ màng tim, viêm mủ màng phổi, rối loạn đông máu,… đe dọa trực tiếp đến tính mạng của trẻ", BS Bằng nhấn mạnh.
Từ trường hợp này, các chuyên gia khuyến cáo, bố mẹ cần theo dõi sát trẻ. Bất kỳ va đập nào của trẻ, dù có gây trầy xước hay không, cũng cần được quan tâm và theo dõi.
Bên cạnh đó, sau va đập, nếu có các biểu hiện như sốt cao, đau nhức kéo dài tại vị trí chấn thương, hạn chế vận động, đi tập tễnh... bố mẹ cần đưa trẻ đến bệnh viện, cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời.
Việc chẩn đoán và can thiệp sớm có thể giúp ngăn ngừa những biến chứng nguy hiểm. Bởi viêm xương tủy là một bệnh lý phức tạp, điều trị dai dẳng, tốn kém và có nguy cơ phải phẫu thuật nhiều lần nếu trẻ đến viện muộn.
Nguyên nhân gây bệnh viêm xương tủy xương
Vi khuẩn thông thường: Tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) là sinh vật phổ biến nhất gây viêm xương tủy xương. Tuy nhiên, các loại cầu khuẩn gram dương khác (bao gồm cả tụ cầu coagulase âm tính và Streptococcuss.pp), trực khuẩn gram âm và các sinh vật kỵ khí cũng thường được phân lập.
Ở trẻ sơ sinh, các mầm bệnh thường được phân lập từ máu hoặc xương là Staphylococcus aureus , Streptococcus agalactiae và Escherichia coli.
Tuy nhiên, ở trẻ em trên 1 tuổi, Staphylococcus aureus, Streptococcus pyogenes và Haemophilus influenza thường gặp nhất. Sau 4 tuổi, tỷ lệ nhiễm Haemophilus influenzae giảm. Kèm theo đó tỷ lệ viêm xương tủy xương do H. influenzae giảm đáng kể khi việc sử dụng vắc-xin H. influenzae này càng phổ biến.
Vi khuẩn lao: Bệnh lao xương là kết quả của sự lây lan qua đường máu của vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Trong một số trường hợp hiếm hoi, bệnh lao xương có thể là một bệnh nhiễm trùng liền kề từ lao hạch.
Các vi khuẩn mycobacteria không điển hình, bao gồm Mycobacterium marinum , Mycobacterium avium-intracellulare , Mycobacterium fortuitum và Mycobacterium gordonae, tất cả đều có liên quan đến nhiễm trùng xương.
Nấm. Nhiễm nấm thường gặp ở người già và người suy giảm miễn dịch. Các loại nấm có thể gặp là coccidioidomycosis, blastomycosis, cryptococcus và sporotrichosis.
Viêm xương tủy xương có 3 đường lây lan chính: đường máu, đường kế cận và nhiễm khuẩn liên quan đến yếu tố mạch máu và thần kinh.
Con đường thứ nhất, vi khuẩn từ máu vào các tổ chức của xương gây nhiễm khuẩn, thường gây nhiễm khuẩn đốt sống và các xương chưa trưởng thành.
Con đường thứ hai, vi khuẩn trực tiếp từ ổ nhiễm khuẩn phần mềm xung quanh lan vào xương, thường gặp trong gãy xương hở hoặc sau phẫu thuật.
Con đường thứ ba xảy ra khi có tổn thương mạch máu và thần kinh gây thiếu máu, giảm khả năng miễn dịch, giảm cảm giác ngoài da dẫn đến vi khuẩn từ môi trường ngoài dễ xâm nhập vào xương. Điển hình của con đường này là bệnh lý bàn chân đái tháo đường.