Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc khóa XIV đã đánh giá khá sâu sắc về kết quả phát triển kinh tế.
Trong đó đã đánh giá kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được đảm bảo. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 bình quân 6,3%/năm. Quy mô GDP năm 2025 ước đạt 510 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 5.000 USD. Chất lượng tăng trưởng có chuyển biến tích cực, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Đó là những đánh giá rất đúng mức và là kết quả đáng mừng của kinh tế Việt Nam trong 5 năm vừa qua và hiện nay.
PGS.TS Đặng Văn Thanh - nguyên Chủ tịch Hiệp Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
Kiên quyết từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ
Sau gần bốn thập niên đổi mới, đất nước ta đã vươn lên mạnh mẽ, song cũng đang đối diện với những giới hạn mới của mô hình tăng trưởng cũ – một mô hình dựa nhiều vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ. Mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất chất lượng, hiệu quả đã được thực hiện nhưng chưa thực sự mạnh mẽ. Năng suất chất lượng và hiệu quả, đặc biệt là sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, có thể thấy còn khoảng cách đáng kể so với các nền kinh tế trong khu vực.
Báo cáo cho biết, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm 2021-2025 đạt khoảng 5,3% thấp hơn mục tiêu đề ra. Hệ số ICOR (hệ số đầu tư phát triển của doanh nghiệp) vẫn còn cao (6,9). Mô hình tăng trưởng kinh tế chuyển đổi chậm. Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa tham gia tích cực và đổi mới mô hình tăng trưởng và chưa trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Rõ ràng, muốn bứt phá, buộc phải sớm chuyển sang nền kinh tế dựa trên tri thức, sáng tạo và năng lực lãnh đạo quốc gia, mà ở đó con người chính là hạ tầng mềm của sự phát triển.
Dự thảo báo cáo chính trị đã nêu mục tiêu phát triển:..."Thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hòa bình độc lập dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Nên chăng viết lại như sau: “Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, công bằng, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”, hoặc viết gọn như sau: “Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Báo cáo đã nêu các nhóm giải pháp lớn như: (1) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước; (2) Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; (3) Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam; (4) Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới;(5) Đột phá phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số quốc gia; (6) Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống nhân dân; (7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và các nhóm giải pháp về quốc phòng an ninh, quan hệ hợp tác quốc tế và hội nhập, xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Báo cáo cũng nhấn mạnh 3 đột phá chiến lược gồm thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực. Tôi xin nêu một số ý kiến về kinh tế, về phát triển kinh tế và những giải pháp có liên quan phát triển kinh tế -xã hội như vấn đề thể chế, về phát triển bền vững, vấn đề nguồn nhân lực, khoa học công nghệ.
Trước hết, cần tiếp tục mô hình tăng trưởng kinh tế đã và đang được đổi mới (chứ không phải xác lập mô hình tăng trưởng mới như tại mục IV của dự thảo báo cáo). Đó là mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, tức là nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh.
Kiên quyết từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ. Sau gần bốn thập niên Đổi mới, bên cạnh nhiều thành tựu to lớn, cũng phải thấy các nguồn lực truyền thống – như lao động giá rẻ, vốn đầu tư nước ngoài hay tài nguyên thiên nhiên sẵn có – đang dần tới giới hạn.
Nguồn lực thể chế, khoa học công nghệ
Cần phát triển kinh tế dựa trên các nguồn lực khác trong đó có nguồn lực thể chế, khoa học công nghệ. Thể chế trở thành nguồn lực quan trọng nhất để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Cần nhận thức, trong thế giới hiện đại, sức mạnh và vị thế của một quốc gia không còn được quyết định bởi tài nguyên thiên nhiên hay quy mô dân số, mà bởi chất lượng thể chế, chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chất lượng thể chế chính là năng lực của quốc gia trong việc kiến tạo và vận hành một hệ thống quy tắc công bằng, minh bạch, hiệu quả, khơi dậy sáng tạo và giải phóng mọi nguồn lực phát triển cho phát triển kinh tế và xã hội.
Cạnh tranh giữa các quốc gia xét đến cùng, chính là cạnh tranh về thể chế. Ai có thể chế tốt sẽ có cơ hội huy động nguồn lực nhanh hơn, phong phú hơn, sử dụng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế và vì vậy công cuộc đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn. Ngược lại, đổi mới sáng tạo sẽ thúc đẩy tăng năng suất, gia tăng giá trị sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp. Thể chế nói chung, thể chế kinh tế nói riêng được coi là hạ tầng mềm có thể quyết định hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế -xã hội là hệ điều hành, hệ quản trị quốc gia, định hình mô hình phát triển kinh tế, tăng năng suất, tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nên đề xuất các giải pháp về phát triển khoa học công nghệ, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ, thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra công nghệ mới, sản phẩm, ngành kinh tế mới và thương hiệu cho riêng Việt Nam. Cần xác định các động lực tăng trưởng mới và lấy khoa học công nghệ là trọng tâm để làm mới các động lực tăng trưởng. Trong việc sắp xếp các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu. Muốn vậy phải có các chính sách đầu tư thích đáng và phù hợp cho phát triển khoa học công nghệ và tạo lập, phát triển thị trường công nghệ.
Thứ ba, một trong những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nhanh, bền vững, có hiểu quả là phải quan tâm nguồn nhân lực chất lượng cao. Dự thảo Báo cáo Chính trị nhấn mạnh đột phá về nhân lực, cho xây dựng đất nước và phát triển kinh tế. Đây là bước tiến lớn về tư duy. Báo cáo cho rằng, cần tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài.
Trong mô hình kinh tế mới, mô hình tăng trưởng mới không thuần túy chỉ là nguồn nhân lực có chất lượng, được đào tạo mà cần quan tâm chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài.
Thứ tư, về cơ cấu kinh tế, cần có giải pháp cơ cấu toàn bộ nền kinh tế, cơ cấu ngành và cơ cấu vùng, cơ cấu sản phẩm. Mọi cơ cấu đề xuất phát và phù hợp đặc điểm kinh tế xã hội Việt Nam. Xác định và có chính sách đầy đủ về các thành phần kinh tế. Có nhận thức rõ ràng, đúng và đủ về sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện và làm chức năng quản lý nhà nước, sở hữu nhà nước, từ đó xác định rõ phạm vi tài sản công, tài sản nhà nước và tài sản của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế và của dân cư.
Thứ năm, cần dành nguôn lực tài chính thỏa đáng cho đầu tư phát triển kinh tế, ban hành và vận hành các chính sách đề thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế và từ nước ngoài. Vấn đề quan trọng là tổ chức lưu chuyển dòng vốn và phân bổ nguồn lực sao cho có hiệu quả.
Thứ sáu, cần quan tâm tăng quy mô tài chính và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Xây dựng và điều hành chính sách tài khóa bền vững và linh hoạt.







