Vẫn còn sản xuất theo kiểu “tự phát”
Sản xuất theo phong trào khiến một số nơi vùng miền núi phát triển ồ ạt những cây trồng mà không tính đến khả năng tiêu thụ, điều kiện kỹ thuật hay quy hoạch dài hạn. Bên cạnh đó, thiếu mã số vùng trồng, không có chuỗi liên kết nên nông sản khó vào siêu thị hoặc xuất khẩu chính ngạch. Một nguyên nhân nữa khiến nông sản miền núi Khánh Hòa chưa phát triển bền vững, là thiếu doanh nghiệp đứng ra bao tiêu, đầu tư chế biến và xây dựng thương hiệu.
Ông Nguyễn Trí Dũng, Phó Chủ tịch UBND xã Tây Khánh Sơn cho biết: Địa phương tập trung tuyên truyền, hướng dẫn bà con trồng cây ăn trái theo chuẩn VietGAP, hữu cơ nhưng chưa hiệu quả. Một phần do thói quen canh tác cũ, một phần do doanh nghiệp chưa mạnh dạn hỗ trợ người dân, đầu tư chế biến sâu.
“Công tác quản lý cũng còn hạn chế, còn bà con theo kiểu chăm sóc truyền thống. Người ta quen và cảm thấy chăm sóc kiểu sử dụng phân bón hóa học thì sản lượng và một số bệnh tật cũng diệt nhanh hơn dòng hữu cơ. Chúng tôi vận động thay đổi thói quen, trồng cây ăn trái bằng phương thức hữu cơ mang đến an toàn cho người tiêu dùng cũng như người chăm sóc”.

Hiện nay, khâu sau thu hoạch còn yếu, công nghệ bảo quản và chế biến gần chưa đáp ứng so với yêu cầu thực tế. Nông sản phần lớn bán tươi, dễ hư hỏng nếu ùn ứ thị trường. Điều này khiến người dân dễ rơi vào tình trạng “trồng nhanh - bán đổ”.
Ông Lê Hùng, trú thôn Hòn Dung, xã Khánh Sơn cho hay: Thấy nhiều người trồng sầu riêng có thu nhập cao, tôi cũng vay mượn trồng được hơn 2ha. Hằng ngày vẫn chăm sóc thu hoạch theo kiểu truyền thống.
“Việc mua bán chủ yếu vẫn phụ thuộc vào thương lái. Người ta đặt cọc mình rồi tới mùa thu hoạch thì đến cắt, nếu ngon thì họ cắt nữa còn không ngon thì họ bỏ. Nếu làm nhiều mới có điều kiện mướn kỹ sư về làm, chứ mình ít thì không thể mướn được. Vì thế chất lượng không ổn định mà giá cả cũng bấp bênh”, ông Hùng chia sẻ thêm.
Tìm hướng đi bền vững
Trước những bất cập trên, tỉnh Khánh Hòa đang thúc đẩy một chiến lược mới cho nông nghiệp miền núi: phát triển có quy hoạch, có tiêu chuẩn, có liên kết chặt chẽ. Trọng tâm là tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh; hỗ trợ bà con chuyển đổi sang canh tác hữu cơ, tuần hoàn hoặc đạt tiêu chuẩn VietGAP; xây dựng mã số vùng trồng và kết nối thị trường.

Tại các xã Khánh Sơn, Tây Khánh Sơn, Đông Khánh Sơn (huyện Khánh Sơn cũ) mô hình trồng sầu riêng hữu cơ, liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu sang Trung Quốc bước đầu cho kết quả khả quan. Một số hợp tác xã được hỗ trợ mã số vùng trồng, chứng nhận VietGAP, đang xây dựng hồ sơ OCOP để nâng giá trị sản phẩm.
Còn tại các xã Khánh Vĩnh, Nam Khánh Vĩnh, Bắc Khánh Vĩnh, Trung Khánh Vĩnh và Tây Khánh Vĩnh (huyện Khánh Vĩnh cũ) nhiều hộ dân đã chuyển đổi diện tích trồng keo, bắp sang trồng chuối, mít theo hướng hữu cơ. Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp gắn với chuyển đổi số, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử đang từng bước tạo được thị trường ổn định.
Theo ông Nguyễn Duy Quang, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa, sau khi sáp nhập tỉnh, đặc biệt là đối với các xã miền núi, tỉnh ưu tiên các loại cây trồng như sầu riêng, bưởi, táo, nho... Gắn kết với du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái ở các trang trại, vùng trồng của đồng bào DTTS để nâng cao đời sống người dân.
“Hiện nay diện tích nhiều, vùng trồng tập trung có, nhưng tiêu thụ, liên kết giữa người dân và doanh nghiệp cũng như các cơ sở kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đang gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là giá trị khi được mùa thì mất giá, hoặc là được giá nhưng chưa đủ sản lượng để ứng. Chính vì thế, cần có cơ chế chính sách đồng bộ nhất giữa nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân để hỗ trợ bao tiêu sản phẩm và hỗ trợ đầu ra khi sản xuất”, ông Quang đề xuất.

Còn ông Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Khánh Hoà cho hay: Nhờ triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, một số hợp tác xã đã được hỗ trợ đầu tư mở rộng, hoàn thiện quy trình sản xuất, đăng ký vùng trồng. Hiện nay, bà con đã bắt đầu chuyển từ mô hình sản xuất truyền thống sang ứng dụng khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
“Đây là hướng đi giúp nông dân - doanh nghiệp - hợp tác xã thuận lợi trong liên kết chuỗi, vừa đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, vừa tạo tiền đề hình thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, góp phần phát triển kinh tế bền vững”, ông Sơn nhấn mạnh.
Từ định hướng này có thể thấy, việc xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường trong giai đoạn tới là một giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp tại vùng đồng bào DTTS và miền núi. Để làm được điều này, trước hết, ngành chức năng cần tiếp tục củng cố và nhân rộng các mô hình liên kết sản xuất-tiêu thụ.
Song song đó, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong canh tác và chế biến, phát triển sản phẩm chế biến sâu nhằm nâng cao giá trị gia tăng. Việc xây dựng nhãn hiệu tập thể, truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, kết nối tiêu thụ qua sàn thương mại điện tử, hệ thống siêu thị sẽ giúp sản phẩm vươn xa hơn.