Xem luật thi đấu Pickleball USA tại Việt Nam năm 2025 mới nhất. Webthethao.vn xin gửi tới quý vị độc giả luật đánh bộ môn Pickleball áp dụng phổ biến hiện nay.
Về việc Áp dụng tạm thời Luật thi đấu Pickleball USA tại Việt Nam: Căn cứ Luật Thể dục, thể thao ngày 29 tháng 11 năm 2006 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Thể dục, thể thao ngày 14 tháng 6 năm2018; Căn cứ Quyết định số 619/QĐ-BVHTTDL ngày 11 tháng 3 năm 2025 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thể dục thể thao Việt Nam; Theo đề nghị của Trưởng phòng Thể thao thành tích cao, quyết định áp dụng tạm thời Luật thi đấu Pickleball USA của Liên đoàn Pickleball Hoa kỳ tại Việt Nam gồm 13 Phần và Mục lục chỉ mục (có Luật thi đấu Pickleball USA và bản dịch kèm theo). Luật này được áp dụng thống nhất trong các giải thi đấu Pickleball trên toàn quốc và thi đấu quốc tế tại Việt Nam. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
LUẬT THI ĐẤU PICKLEBALL USA
(Ban hành kèm theo Quyết định số /QĐ-TDTTVN ngày tháng năm 2025 của Cục trưởng Cục Thể dục thể thao Việt Nam)
PHẦN 13. QUẢN LÝ GIẢI ĐẤU VÀ TRỌNG TÀI
13.A. Trưởng Ban tổ chức giải đấu (Tournament Director). Một Trưởng Ban tổ chức giải đấu chịu trách nhiệm tổng thể cho giải đấu. Trưởng Ban tổ chức giải đấu có trách nhiệm chỉ định các trọng tài và phân công khu vực trách nhiệm của họ.
13.A.1. Một người chơi có thể kháng nghị bất kỳ quyết định trọng tài nào lên Trưởng Ban tổ chức giải đấu hoặc người được chỉ định. Tuy nhiên, Trưởng Ban tổ chức giải đấu giữ quyền quyết định cuối cùng dựa trên quy định hiện hành trong Sổ tay Luật Chính thức.
13.A.2. Trong tất cả các giải đấu Trưởng Ban tổ chức giải đấu phải cung cấp một phương pháp để xác định người giao bóng đầu tiên của mỗi đội trong mỗi ván đấu. Dấu hiệu nhận diện này phải dễ thấy đối với tất cả mọi người trên sân trong khi thi đấu. Từ chối đeo dấu hiệu này sẽ dẫn đến việc bị xử thua trận đấu.
13.A.3. Trưởng Ban tổ chức giải đấu nên kiểm tra để đảm bảo các dịch vụ hỗ trợ dự kiến (ví dụ: sơ cứu, tình nguyện viên giải đấu, v.v.) đã sẵn sàng.
13.A.4. Trưởng Ban tổ chức giải đấu có quyền trục xuất bất kỳ người chơi nào khỏi giải đấu vì hành vi sai phạm.
13.B. Thông báo trước giải đấu (Tournament Briefing). Trước giải đấu, Trưởng Ban tổ chức giải đấu phải phổ biến cho người chơi và trọng tài về bất kỳ đặc điểm đặc thù, điều kiện địa phương bất thường hoặc nguy hiểm nào liên quan đến các sân thi đấu. Những thông báo này có thể bao gồm nhưng không giới hạn ở: khoảng cách không đồng đều giữa các sân (chẳng hạn như khoảng cách từ đường cuối sân đến hàng rào phía sau), trần nhà thấp, các vật thể treo phía trên, sửa chữa sân hoặc hư hỏng có thể ảnh hưởng đến đường đi của bóng. Nếu có thể, người chơi nên được thông báo bằng văn bản như một phần của hướng dẫn trước giải đấu. Trọng tài sẽ được phổ biến ngay khi đến địa điểm tổ chức giải đấu bởi Trưởng Ban tổ chức giải đấu hoặc người được ủy quyền.
13.B.1. Trưởng Ban tổ chức giải đấu không được phép áp dụng hoặc thi hành bất kỳ luật lệ nào không được quy định trong Luật thi đấu. Nếu Trưởng Ban tổ chức giải đấu muốn xin ngoại lệ đối với bất kỳ luật lệ nào vì lý do hạn chế vật lý của sân đấu hoặc điều kiện địa phương, thì phải được Cục Thể dục thể thao Việt Nam phê duyệt trước khi giải đấu diễn ra.

13.C. Nhiệm vụ của Trọng tài. Trọng tài chịu trách nhiệm đối với tất cả các quyết định liên quan đến thủ tục và phán đoán trong suốt trận đấu. Người chơi có thể kháng nghị bất kỳ quyết định nào của trọng tài lên Trưởng Ban tổ chức giải đấu hoặc người được chỉ định của họ.
13.C.1. Trọng tài sẽ gọi các lỗi trong khu vực cấm volley, giao bóng thấp, và lỗi chân khi giao bóng.
13.C.2. Nếu người chơi hoặc trọng tài biên thực hiện các phán đoán về đường biên và có tranh chấp xảy ra, người chơi có thể yêu cầu trọng tài quyết định. Nếu trọng tài không thể đưa ra phán đoán rõ ràng, thì phán đoán của người chơi hoặc trọng tài biên sẽ được giữ nguyên. Nếu hai người chơi trong một đội đôi không đồng thuận về một pha bóng và kháng nghị lên trọng tài, nhưng trọng tài cũng không thể xác định, thì bóng sẽ được xem là "trong sân". Lưu ý: Một người chơi có thể chọn tự bác bỏ quyết định đường biên có lợi cho mình (xem Luật 6.C.11).
13.C.2.a. Không được tham khảo ý kiến của khán giả đối với bất kỳ tình huống nào.
13.C.3. Trước khi bắt đầu mỗi trận đấu, trọng tài phải:
13.C.3.a. Kiểm tra sân thi đấu về độ sạch sẽ, ánh sáng, chiều cao của lưới, đường kẻ sân, và các yếu tố có thể gây nguy hiểm.
13.C.3.b. Kiểm tra sự sẵn sàng và phù hợp của các vật dụng cần thiết cho trận đấu như: bóng, phiếu điểm, bút chì và thiết bị bấm giờ (đồng hồ bấm giờ).
13.C.4. Trước khi bắt đầu mỗi trận đấu, trọng tài phải gặp người chơi tại sân để: 13.C.4.a. Kiểm tra vợt để phát hiện các bất thường.
13.C.4.b. Chỉ ra các điều chỉnh luật được chấp thuận, điểm bất thường trên sân và các điều kiện không tiêu chuẩn có thể gây nguy hiểm, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc sửa chữa sân hoặc các mối nối, khoảng cách khác nhau từ đường cuối sân đến hàng rào, khán giả và khu vực ngồi của họ.
13.C.4.c. Hướng dẫn người chơi về nhiệm vụ gọi bóng trong và ngoài sân của trọng tài, trọng tài biên và chính người chơi. Lưu ý: Yêu cầu này có thể được đáp ứng thông qua các hướng dẫn trước trận do Giám đốc Giải đấu cung cấp.
13.C.4.d. Sử dụng bất kỳ phương pháp công bằng nào để xác định lượt chọn đầu tiên giữa các lựa chọn: sân bên, giao bóng, đỡ bóng, hoặc nhường lượt.
13.C.4.e. Đảm bảo người giao bóng đầu tiên của mỗi đội đeo thẻ nhận diện chính thức. Việc từ chối đeo thẻ nhận diện sẽ dẫn đến bị xử thua trận đấu.
13.C.5. Trong suốt trận đấu, trọng tài phải:
13.C.5.a. Kiểm tra lại chiều cao và vị trí của lưới nếu lưới bị xê dịch.
13.C.5.b. Gọi điểm số để bắt đầu mỗi pha giao bóng. Việc gọi điểm báo hiệu cho cả hai bên rằng trận đấu đã sẵn sàng tiếp tục.
13.C.5.c. Gọi “point” (điểm) sau mỗi lần điểm được trao.
13.C.5.d. Ghi chép thích hợp vào phiếu điểm sau mỗi pha bóng hoặc khi thời gian chờ được gọi.
13.C.5.e. Trong các trận đôi, gọi “second server” (người giao bóng thứ hai) hoặc “second serve” (lượt giao bóng thứ hai) sau khi đội của người giao bóng đầu tiên thua điểm.
13.C.5.f. Gọi “side out” (đổi quyền giao bóng) khi thích hợp.
13.C.5.g. Thực thi các quy trình về thời gian chờ (xem phần 10).
13.C.5.h. Giám sát hành vi người chơi. Trong các giải đấu do Cục Thể dục thể thao Việt Nam tổ chức, trọng tài có quyền: đưa ra cảnh cáo bằng lời, cảnh cáo kỹ thuật, lỗi kỹ thuật, xử thua một ván hoặc toàn trận dựa trên sự kết hợp cụ thể của các lỗi kỹ thuật và/hoặc cảnh cáo kỹ thuật, và có thể đề xuất truất quyền thi đấu với Trưởng Ban tổ chức giải đấu.
13.D. Trách nhiệm gọi đường biên và lỗi của người chơi
13.D.1. Trận đấu không có trọng tài
13.D.1.a. Với tinh thần thể thao cao thượng, người chơi được kỳ vọng sẽ tự gọi lỗi của chính mình hoặc của đồng đội ngay khi lỗi xảy ra hoặc được phát hiện. Lỗi phải được gọi trước khi lượt giao bóng tiếp theo diễn ra.
13.D.1.b. Người chơi thực hiện tất cả các quyết định về đường biên, lỗi khu vực cấm volley và lỗi chân khi giao bóng ở phía sân của họ.
13.D.1.c. Người chơi có thể gọi lỗi khu vực cấm volley và lỗi chân khi giao bóng ở phía sân của đối thủ. Những lỗi này phải được gọi ngay khi được phát hiện. Nếu hai đội bất đồng về lỗi đã được gọi, pha bóng đó sẽ được đấu lại (replay).
13.D.1.d. Trong các trận không có trọng tài, nếu một người chơi tin rằng đối thủ phạm phải một lỗi khác ngoài lỗi chân khi giao bóng hoặc lỗi khu vực cấm volley (theo Mục 7 – Quy định về lỗi), họ có thể nêu ra lỗi đó với đối thủ sau khi pha bóng kết thúc, nhưng không có quyền bắt buộc đối thủ chấp nhận lỗi. Quyết định cuối cùng thuộc về người chơi bị cho là đã phạm lỗi.
13.D.2. Trận đấu có trọng tài
13.D.2.a. Người chơi sẽ gọi các đường biên cuối sân, biên dọc, và đường giao bóng giữa ở phía sân của họ.
13.D.2.b. Với tinh thần thể thao cao thượng, người chơi được kỳ vọng sẽ tự nhận lỗi của mình ngay khi lỗi xảy ra hoặc được phát hiện. Lỗi phải được gọi trước khi lượt giao bóng tiếp theo diễn ra.
13.D.3. Trận đấu có trọng tài và có trọng tài biên
13.D.3.a. Người chơi sẽ gọi lỗi đường giao bóng giữa ở phía sân của mình.
13.D.3.b. Ngoại trừ lỗi đường giao bóng giữa, các quyết định về đường biên của người chơi không có hiệu lực trong các trận đấu có trọng tài biên, trừ khi người chơi muốn sửa một quyết định theo hướng bất lợi cho đội mình (xem Quy tắc 6.C.11). Người chơi có thể kháng nghị quyết định của trọng tài biên lên trọng tài chính (xem Mục 13.F).
13.D.3.c. Nếu cả trọng tài biên và trọng tài chính không thể đưa ra quyết định đường biên, pha bóng sẽ được đấu lại.
13.E. Trọng tài biên
13.E.1. Trưởng Ban tổ chức giải sẽ quyết định trận tranh huy chương nào sẽ sử dụng trọng tài biên. Trọng tài biên được khuyến khích sử dụng nhưng không bắt buộc.
13.E.2. Trọng tài biên sẽ đưa ra các quyết định về đường biên và lỗi chân khi giao bóng trong phạm vi trách nhiệm của họ và báo hiệu bằng cách hô to “out” (ra ngoài) hoặc “service foot fault” (lỗi chân khi giao bóng), đồng thời giơ tay chỉ thẳng ra ngoài khu vực sân.
13.E.3. Nếu trọng tài biên báo hiệu “bị che khuất/tầm nhìn bị cản trở”, trọng tài chính có thể đưa ra quyết định ngay lập tức nếu họ rõ ràng thấy được bóng rơi chỗ nào. Nếu trọng tài chính không thể quyết định, họ sẽ hỏi ý kiến các thành viên phù hợp khác trong tổ trọng tài để hỗ trợ ra quyết định.
13.E.4. Khi có kháng nghị, nếu trọng tài chính hủy quyết định “out” của trọng tài biên và cho là “in”, pha bóng sẽ được đấu lại, trừ khi đội được lợi từ quyết định của trọng tài chính chấp nhận nhường điểm.
13.E.5. Nếu người chơi không đồng ý với quyết định “out” của trọng tài biên mang lại lợi thế cho đội mình, người chơi có thể sửa lại quyết định thành “in” theo quy tắc 6.C.11. Pha bóng sẽ được đấu lại, trừ khi đội đã sửa quyết định theo hướng bất lợi cho mình chấp nhận nhường điểm.
13.F. Kháng nghị. Các kháng nghị về các quyết định phán đoán (ví dụ: đường biên, bóng nảy hai lần, v.v.) sẽ do trọng tài chính quyết định. Trọng tài có thể tham khảo ý kiến người chơi hoặc trọng tài biên để đưa ra quyết định cuối cùng.
13.F.1. Trong trận không có trọng tài biên, nếu người chơi kháng nghị quyết định về đường biên lên trọng tài chính: Trọng tài sẽ đưa ra quyết định nếu họ rõ ràng thấy bóng rơi trong hay ngoài. Nếu trọng tài không thể quyết định, thì quyết định ban đầu sẽ được giữ nguyên. Nếu không có quyết định nào được đưa ra, bóng sẽ được coi là “in”.
13.F.2. Quyết định của trọng tài có thể dẫn đến: một điểm được trao, mất quyền giao bóng, hoặc pha bóng được đấu lại.
13.F.3. Chỉ các pha bóng kết thúc rally mới có thể kháng nghị. Bất kỳ người chơi nào cũng có thể kháng nghị pha bóng kết thúc rally trước khi lượt giao bóng tiếp theo diễn ra. Nếu là pha kết thúc trận đấu, kháng nghị phải được đưa ra trước khi ký vào phiếu điểm.
13.G. Cảnh cáo bằng lời, cảnh cáo kỹ thuật và lỗi kỹ thuật
13.G.1. Cảnh cáo bằng lời và cảnh cáo kỹ thuật. Trọng tài được phép đưa ra một cảnh cáo bằng lời duy nhất cho mỗi người chơi hoặc đội, hoặc đưa ra cảnh cáo kỹ thuật. Các hành động hoặc hành vi sẽ dẫn đến cảnh cáo bằng lờihoặc cảnh cáo kỹ thuật bao gồm:
13.G.1.a. Sử dụng ngôn ngữ khiếm nhã hoặc xúc phạm nhắm vào người khác.
13.G.1.b. Chửi thề (nghe thấy được hoặc nhìn thấy được) vì bất kỳ lý do nào. Trọng tài sẽ quyết định mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm.
13.G.1.c. Tranh cãi gay gắt với tổ trọng tài, người chơi khác hoặc khán giả theo cách làm gián đoạn nhịp độ trận đấu.
13.G.1.d. Phá bóng (dẫm mạnh hoặc cố ý làm vỡ bóng), hoặc đánh bóng giữa các pha một cách không phù hợp.
13.G.1.e. Cố tình kéo dài thời gian giữa các pha bóng để làm gián đoạn nhịp độ trận đấu.
13.G.1.f. Liên tục khiếu nại các quyết định đường biên đến mức làm gián đoạn trận đấu.
13.G.1.g. Thách thức quyết định của trọng tài nhưng bị xử thua khiếu nại (ví dụ: quyết định của trọng tài là đúng) và bị trừ một lần hội ý. (Không áp dụng cảnh cáo bằng lời.)
13.G.1.h. Yêu cầu hội ý y tế mà không có lý do y tế hợp lệ, theo đánh giá của nhân viên y tế hoặc giám đốc giải nếu không có nhân viên y tế. (Không áp dụng cảnh cáo bằng lời.)
13.G.1.i. Các hành vi được xem là hành vi phi thể thao nhẹ, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc liên tục gọi “out” thiếu chính xác, và bị trọng tài lật ngược quyết định sau khi khiếu nại.
13.G.1.j. Nhận lời hướng dẫn từ người khác ngoài đồng đội, ngoại trừ trong thời gian hội ý hoặc giữa các ván.
13.G.2. Lỗi kỹ thuật (Technical Fouls). Trọng tài có quyền trực tiếp gọi lỗi kỹ thuật. Khi một lỗi kỹ thuật được gọi: Một điểm sẽ bị trừ khỏi điểm số của người chơi/đội phạm lỗi, trừ khi điểm số của họ là 0, trong trường hợp đó, một điểm sẽ được cộng cho đối phương. Các hành vi dẫn đến lỗi kỹ thuật (không cần cảnh cáo kỹ thuật trước) bao gồm:
13.G.2.a. Ném vợt mạnh hoặc liều lĩnh trong lúc tức giận, bất chấp hậu quả, nhưng không gây thương tích hoặc thiệt hại tài sản.
13.G.2.b. Người chơi sử dụng ngôn từ cực kỳ phản cảm hoặc chửi thề, bất kể nhằm vào ai hay điều gì.
13.G.2.c. Đe dọa hoặc thách thức người khác bằng bất kỳ hình thức nào.
13.G.2.d. Thách thức quyết định của trọng tài nhưng bị xử thua khiếu nại,và không còn thời gian hội ý. (Không áp dụng cảnh cáo bằng lời.)
13.G.2.e. Bất kỳ hành vi nào khác được coi là hành vi phi thể thao nghiêm trọng.
13.G.2.f. Yêu cầu hội ý y tế mà không có lý do y tế hợp lệ, và đội (hoặc người chơi trong trận đơn) đã hết quyền hội ý. (Không áp dụng cảnh cáo bằng lời.)
13.G.2.g. Cố tình ném hoặc đánh một quả bóng không đang trong cuộc chơi mà thiếu cẩn trọng với hậu quả, dẫn đến vô tình trúng người khác.
13.G.3. Ảnh hưởng của Cảnh cáo Kỹ thuật và Lỗi Kỹ thuật. Việc áp dụng cảnh cáo kỹ thuật hoặc lỗi kỹ thuật phải kèm theo giải thích ngắn gọn về lý do đưa ra quyết định.
13.G.3.a. Một cảnh cáo kỹ thuật không dẫn đến mất điểm hoặc mất lượt giao bóng.
13.G.3.b. Sau khi đã nhận một cảnh cáo kỹ thuật, nếu người chơi/đội đó nhận cảnh cáo kỹ thuật thứ hai vì bất kỳ lý do gì trong cùng một trận đấu, thì sẽ bị chuyển thành lỗi kỹ thuật.
13.G.3.c. Nếu trọng tài gọi lỗi kỹ thuật, thì: Một điểm sẽ bị trừ khỏi điểm số của người chơi/đội phạm lỗi, trừ khi điểm đang là 0. Nếu điểm đang là 0, một điểm sẽ được cộng cho đối thủ. Sau khi điểm đã được trừ hoặc cộng, người chơi hoặc đội bị mất hoặc được điểm phải di chuyển về đúng vị trí tương ứng với điểm số mới.
13.G.3.d. Một cảnh cáo kỹ thuật hoặc lỗi kỹ thuật không ảnh hưởng đến quyền giao bóng hoặc đổi lượt giao bóng.
13.G.3.e. Cảnh cáo bằng lời, cảnh cáo kỹ thuật và lỗi kỹ thuật có thể được áp dụng bất kỳ lúc nào khi người chơi đang ở trên sân, bao gồm cả trong thời gian khởi động. Trận đấu sẽ không bị dừng lại để áp dụng cảnh cáo hoặc lỗi. Cảnh cáo hoặc lỗi sẽ được áp dụng sau khi điểm (rally) kết thúc.
13.G.4.Nếu hành vi vi phạm xảy ra sau khi trận đấu đã kết thúc, trong khi người chơi vẫn còn trên sân, thì phải báo cho Trưởng Ban tổ chức giải đấu. Dựa trên thông tin này, Trưởng Ban tổ chức giải đấu có thể áp dụng Cảnh cáo bằng lời, Cảnh cáo kỹ thuật hoặc Lỗi kỹ thuật - và áp dụng hình phạt đó cho trận đấu tiếp theo của người chơi vi phạm trong giải đấu.
13.H. Xử thua ván đấu. Trọng tài có quyền xử thua một ván đấu nếu xảy ra một trong các trường hợp sau:
13.H.1. Sau khi đã áp dụng một cảnh cáo kỹ thuật, nếu tiếp tục xảy ra một lỗi kỹ thuật theo mục 13.G.2.
13.H.2. Sau khi đã áp dụng một lỗi kỹ thuật theo 13.G.3.b hoặc 13.G.2, nếu tiếp tục xảy ra một cảnh cáo kỹ thuật vì bất kỳ lý do nào.
13.H.3. Đối với thể thức thi đấu một ván duy nhất đến 15 hoặc 21 điểm, xử thua ván đấu tương đương với xử thua cả trận.
13.H.4. Đối với thể thức thi đấu hai thắng một (best of 3) hoặc ba thắng hai (best of 5): Xử thua ván đấu nếu người chơi/đội không có mặt để thi đấu sau 10 phút kể từ khi trận đấu được thông báo bắt đầu. Xử thua trận đấu nếu người chơi/đội không có mặt sau 15 phút kể từ khi trận đấu được thông báo bắt đầu. Nếu thể thức thi đấu là một ván đến 15 hoặc 21 điểm, xử thua trận nếu người chơi/đội không có mặt sau 10 phút từ khi trận đấu được gọi. Giám đốc Giải đấu có thể cho phép kéo dài thời gian chờ, nếu tình huống thực tế cho phép.
13.I. Xử thua trận đấu
13.I.1. Trọng tài sẽ xử thua cả trận đấu dựa trên sự kết hợp giữa cảnh cáo kỹ thuật và lỗi kỹ thuật, khi xảy ra một trong các trường hợp sau:
13.I.1.a. Khi có sự kết hợp giữa hai cảnh cáo kỹ thuật và một lỗi kỹ thuật theo quy định tại 13.G.2.
13.I.1.b. Sau khi đã bị áp dụng một lỗi kỹ thuật theo 13.G.3.b hoặc 13.G.2, nếu tiếp tục bị áp dụng lỗi kỹ thuật thứ hai vì bất kỳ lý do nào.
13.I.1.c. Hành vi dẫn đến xử thua trận mà không liên quan đến sự kết hợp giữa cảnh cáo kỹ thuật hoặc lỗi kỹ thuật.
13.I.1.c.1. Cố tình va chạm mạnh về thể chất với đối thủ, trọng tài hoặc khán giả.
13.I.1.c.2. Đánh hoặc ném bóng/vợt một cách hung hăng hoặc thiếu kiểm soát vì tức giận, khiến người khác hoặc tài sản của cơ sở bị đe dọa hoặc nguy hiểm.
13.I.2. Trưởng Ban tổ chức giải đấu có quyền xử thua một trận đấu nếu người chơi: Không tuân thủ các quy định của giải đấu hoặc cơ sở tổ chức, Có hành vi không phù hợp tại địa điểm tổ chức giữa các trận đấu, Lạm dụng các tiện ích hỗ trợ (ví dụ: khu vực nghỉ ngơi, phòng thay đồ), Hoặc vi phạm các quy trình và quy định khác của giải đấu.
13.J. Khiếu nại quyết định của trọng tài. Nếu một người chơi không đồng ý với quyết định hoặc phán đoán của trọng tài, người chơi đó có thể: Yêu cầu Tổng Trọng tài Trưởng, Trưởng Ban tổ chức giải đấu hoặc người được Trưởng Ban tổ chức giải đấu chỉ định can thiệp. Nếu kết luận rằng quyết định của trọng tài là đúng, thì: Người chơi hoặc đội sẽ mất một thời gian hội ý (time-out), và bị cảnh cáo kỹ thuật (xem mục 13.G.1.g). Nếu không còn time-out, thì: Sẽ bị lỗi kỹ thuật (xem 13.G.2.d). Nếu kết luận rằng trọng tài sai, thì: Quyết định sẽ được đảo ngược, và nếu phù hợp, điểm rally sẽ được thi đấu lại.
13.K. Loại bỏ trọng tài biên. Trọng tài chính có thể loại bỏ một trọng tài biên vì bất kỳ lý do hợp lý nào, dựa trên quan sát của bản thân hoặc phản hồi từ người chơi.
Nếu quyết định loại bỏ dựa trên quan sát của chính trọng tài, thì quyết định là cuối cùng. Người chơi có thể yêu cầu loại bỏ trọng tài biên, với điều kiện tất cả người chơi đồng ý. Nếu trọng tài không đồng ý với yêu cầu đó, họ phải tham khảo ý kiến của Trưởng Ban tổ chức giải đấu để đưa ra quyết định cuối cùng.
Khi một trọng tài biên bị loại bỏ, Trưởng Ban tổ chức giải đấu sẽ chỉ định người thay thế.
13.K.1. Loại bỏ trọng tài chính. Nếu tất cả người chơi đồng ý, họ có thể kiến nghị với Trưởng Ban tổ chức giải đấu để loại bỏ trọng tài chính. Trưởng Ban tổ chức giải đấu có toàn quyền quyết định cuối cùng về việc loại bỏ trọng tài. Nếu trọng tài bị loại, Trưởng Ban tổ chức giải đấu sẽ chỉ định một trọng tài thay thế.
13.L. Thi đấu không có trọng tài. Trong một trận đấu không có trọng tài, bất kỳ người chơi nào cũng có thể yêu cầu một trọng tài hoặc Trưởng Ban tổ chức giải đấu can thiệp nếu:
13.L.1. Người chơi tin rằng đối thủ đang cố tình và liên tục vi phạm luật.
13.L.2. Có tình huống xảy ra mà người chơi không thể giải quyết nhanh chóng và dễ dàng.
13.L.2.a. Nếu bất kỳ người chơi nào tin rằng vợt không tuân thủ các quy định về vợt, người đó có quyền yêu cầu Tổng Trọng tài hoặc Trưởng Ban tổ chức giải đấu kiểm tra tính hợp lệ của vợt.
13.M. Trục xuất và loại khỏi giải đấu. Trưởng Ban tổ chức giải đấu có thể trục xuất một người chơi khỏi giải đấu vì hành vi nghiêm trọng và gây tổn hại, mà theo đánh giá của Trưởng Ban tổ chức, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự thành công của giải đấu. Việc trục xuất có thể xảy ra bất cứ lúc nào người chơi có mặt tại địa điểm thi đấu, và bao gồm (nhưng không giới hạn ở) các hành vi sau:
13.M.1. Sử dụng lời nói mang tính xúc phạm về chủng tộc, tôn giáo, giới tính, hoặc xu hướng tình dục.
13.M.2. Gây thương tích cho người chơi, trọng tài hoặc khán giả thông qua hành vi lạm dụng vợt hoặc bóng.
13.M.3. Khạc nhổ hoặc cố ý ho vào người khác.
13.M.4. Không thi đấu hết sức mình – bao gồm nhưng không giới hạn ở: Tự ý bỏ cuộc, Xử thua, Cố tình chơi dưới sức mình vì bất kỳ mục đích nào.
Lưu ý: Bên cạnh việc trục xuất khỏi giải đấu, Trưởng Ban tổ chức giải đấu còn có quyền cấm người chơi tiếp tục hiện diện tại địa điểm thi đấu (tức là đuổi ra khỏi khuôn viên tổ chức).


