Hỗ trợ nội dung miễn phí

Chúng tôi sử dụng quảng cáo để giữ cho nội dung của chúng tôi miễn phí cho bạn. Vui lòng cho phép quảng cáo và để các nhà tài trợ tài trợ cho việc lướt web của bạn.
Cảm ơn bạn!

Ngành thủ công mỹ nghệ Hà Nội “đói” nguyên liệu

Vneconomy 7 Giờ trước

Theo Sở Công Thương Hà Nội, thành phố hiện có 47 nghề trong tổng số 52 nghề truyền thống của cả nước, với 1.350 làng nghề và làng có nghề. Trong đó nghề sơn mài, khảm trai là 39 làng; nghề mây tre giang đan 365 làng; nghề chế biến lâm sản 170 làng; nghề gốm sứ 5 làng; nghề nón, mũ lá 62 làng; nghề cơ kim khí 78 làng; nghề chạm, điêu khắc 13 làng; nghề dát vàng, quỳ 4 làng; nghề đan tơ lưới 5 làng; nghề thêu ren 138 làng; nghề dệt may 152 làng; nghề da giày, khâu bóng 12 làng; nghề làm giấy vàng mã 5 làng; nghề chế biến nông sản thực phẩm 159 làng; ngành nghề khác 143 làng.

Như vậy, Hà Nội là địa phương dẫn đầu trong cả nước với 1.350 làng nghề, trong đó có trên 800 làng có nghề thủ công mỹ nghệ. Theo báo cáo từ các xã, phường thành phố Hà Nội, tổng doanh thu từ 337 làng nghề truyền thống và các làng có nghề đạt trên 20.000 tỷ đồng. Một số làng nghề thủ công mỹ nghệ có doanh thu cao, như làng nghề điều khắc mỹ nghệ thôn Sơn Đồng, huyện Hoài Đức đạt trên 3.000 tỷ đồng, làng nghề đồ mộc thôn Hữu Bằng, huyện Thạch Thất đạt trên 1000 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội tính đến hết tháng 9 năm 2024 đạt trên 200 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023.

KHÔNG TỰ CHỦ VỀ NGUYÊN LIỆU

Theo số liệu khảo sát mới nhất của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội, tại các khu vực tập trung nhiều làng nghề thuộc các nhóm ngành gốm sứ, sơn mài, mây tre đan và đồ gỗ, trung bình một năm các làng nghề mây tre đan Hà Nội tiêu thụ khoảng 6.800 tấn nguyên liệu các loại (mây, tre, luồng, nứa, vầu, bèo, cỏ tế, chít...).

Trong đó, trung bình một doanh nghiệp tiêu thụ khoảng 50 tấn nguyên liệu/tháng, hộ gia đình tiêu thụ khoảng 20 tấn nguyên liệu/tháng. Các làng nghề gốm sứ tiêu thụ khoảng 620.000 tấn nguyên liệu, chủ yếu là đất sét và cao lanh; các làng nghề sơn mài khoảng 4.000 tấn; làng nghề gỗ khoảng trên 1.000.000 m3 gỗ.

Tuy nhiên, tại “Hội nghị kết nối cung cầu nguyên liệu đầu vào ngành thủ công mỹ nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh phía Bắc” ngày 2/8, Nghệ nhân ưu tú Đào Việt Bình, Chủ tịch Hiệp hội gốm sứ Kim Lan chia sẻ nhu cầu nguyên liệu cho sản phẩm gốm sứ hàng năm khá cao. Đơn cử, đất sét, cao lanh khoảng 80.000 tấn; tràng thạch, thạch anh 10.000 tấn; men, phụ gia 3.000 tấn.

Hà Nội có trên 800 làng có nghề thủ công mỹ nghệ. Hà Nội có trên 800 làng có nghề thủ công mỹ nghệ.

Song phần lớn nguyên liệu này phải mua từ các tỉnh ngoài Hà Nội như Phú Thọ, Quảng Ninh, Lào Cai… và một phần từ nhập khẩu. Trong khi đó, chuỗi cung ứng nguyên liệu cho gốm sứ còn nhiều bất cập do phụ thuộc trung gian, chưa có hệ thống mua bán trực tiếp giữa nơi khai thác và nơi sản xuất. Khó tiếp cận được những mỏ đất sét và cao lanh chất lượng cao vì các mỏ đó sau khi khai thác đã được bán cho các doanh nghiệp nước ngoài với giá thành cao hơn so với bán cho các doanh nghiệp trong nước.

Đặc biệt, giá nguyên liệu biến động mạnh, thiếu hợp đồng ổn định dài hạn. Chi phí vận chuyển cao, do chưa có chuỗi logistics chuyên biệt. Chất lượng nguyên liệu không đồng đều, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và tỷ lệ lỗi. Một số nguyên liệu như men màu đặc biệt, zircon, oxit kim loại tinh chế hiện phải nhập khẩu với giá cao, làm tăng giá thành sản phẩm, khó cạnh tranh.

Ông Nguyễn Vinh Quang, Chủ tịch Hiệp hội khảm trai Phú Xuyên, Hà Nội cũng cho biết nguyên liệu chính của nghề khảm trai là vỏ ốc, trai, điệp từ biển. Hiện nay, nguồn nguyên liệu này ngày càng khan hiếm và giá thành cao. Việc khai thác quá mức trong quá khứ, cùng với các quy định bảo tồn đa dạng sinh học, đã khiến nguồn cung trở nên không ổn định. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất, đẩy giá thành sản phẩm lên cao, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa, chất lượng nguyên liệu cũng không đồng đều, gây khó khăn cho nghệ nhân trong việc lựa chọn và xử lý để tạo ra những tác phẩm hoàn hảo.

Đối với lĩnh vực sơn mài, bà Nguyễn Thị Hồi, Chủ tịch Hội sơn mài Hạ Thái chia sẻ 80% nguyên liệu đầu vào phải nhập từ ngoài tỉnh, nguồn cung không ổn định, chi phí vận chuyển cao, thường phải đặt qua trung gian nên không chủ động trong sản xuất.

XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI KẾT NỐI CUNG ỨNG NGUYÊN LIỆU LIÊN VÙNG

Để hoá giải những bất cập trên, ông Đào Việt Bình đề xuất giải pháp liên kết vùng nguyên liệu - sản xuất nhằm thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh có mỏ nguyên liệu và các làng nghề gốm sứ Hà Nội. Đồng thời khuyến khích hợp đồng cung ứng dài hạn, giảm rủi ro do biến động thị trường. Đồng thời phát triển logistics và hạ tầng kho bãi, như xây dựng các kho trung chuyển nguyên liệu tại khu vực Gia Lâm; số hóa quản lý logistics, minh bạch chi phí vận hành.

Mặt khác, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xưởng sơ chế - tinh luyện nguyên liệu tại chỗ. Hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để cải tiến công nghệ và phân tích chất lượng nguyên liệu. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng: Hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các cơ sở sản xuất mở rộng kho nguyên liệu; ưu đãi về thuế, đất đai, vận tải cho doanh nghiệp cung ứng nguyên liệu nội địa.

Bà Hồi kiến nghị Hà Nội cần thiết lập một chuỗi cung ứng chính quy và ổn định nguyên liệu. Cần xây dựng mạng lưới kết nối cung ứng nguyên liệu liên vùng gồm Hà Nội và các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Nghệ An, Thanh Hoá… và phát triển các vùng cung cấp nguyên liệu ổn định với tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe.

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có mặt trên 163 quốc gia và vùng lãnh thổ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có mặt trên 163 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Theo ông Lê Bá Ngọc, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, nguyên liệu cho thủ công mỹ nghệ đang là vấn đề lớn của các làng nghề. “Hiện nay mây tre chúng ta phụ thuộc vào Thanh Hoá, nứa phụ thuộc Sơn La, Hoà Bình; mây phụ thuộc Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Lâm Đồng…. nếu các tỉnh không có quy hoạch vùng nguyên liệu thì Hà Nội cũng rất khó khăn tìm nguồn cung nguyên liệu. Do đó cần liên kết nội tại, kết nối liên vùng với nhau”, ông Ngọc nói.

Song theo ông Ngọc, câu chuyện liên kết cần khác đi, từ trước tới nay các địa phương ký kết nhiều nhưng không thực hiện. Vì thế lúc này, việc ký kết hợp tác cần thực chất, có hẳn một vùng nguyên liệu, đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu như nguyên liệu phải chứng minh được giảm phát thải khí nhà kính, nguồn nguyên liệu hợp pháp.. . đòi hỏi cả hệ sinh thái phải sản xuất bền vững. Dẫn ví dụ như Hà Nội ký kết với Thanh Hoá về nguyên liệu tre, với Quảng Nam về nguyên liệu mây; nguyên liệu tơ lụa cần với Lâm Đồng…

Bên cạnh liên kết tạo vùng nguyên liệu, ông Ngọc cho rằng cần liên kết để tạo nguồn nguyên liệu minh bạch thông qua chế biến. Quan điểm hợp tác nên theo chuỗi: công – tư – cộng đồng kết hợp, vì các thị trường nhập khẩu hiện nay truy xuất đến tận cùng sản phẩm. “Nếu làm được những điều trên thì câu chuyện nguyên liệu được giải quyết và giữ được cạnh tranh cũng như duy trì được sự phát triển của làng nghề”, ông Ngọc tự tin nói.

Xem bản gốc