Hỗ trợ nội dung miễn phí

Chúng tôi sử dụng quảng cáo để giữ cho nội dung của chúng tôi miễn phí cho bạn. Vui lòng cho phép quảng cáo và để các nhà tài trợ tài trợ cho việc lướt web của bạn.
Cảm ơn bạn!

Nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Những vùng trời” chạm tim sĩ tử

Khoa học và đời sống 4 Giờ trước

Sáng 26/6, hơn 1,15 triệu thí sinh chính thức bước vào môn Ngữ văn - môn đầu tiên của kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2025 với đề thi gồm hai phần: Đọc hiểu và Làm văn – cả hai đều sử dụng trích đoạn từ truyện ngắn Những vùng trời khác nhau của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Đây không phải lần đầu tiên tác phẩm của ông xuất hiện trong một kỳ thi quan trọng. “Chiếc thuyền ngoài xa”, "Mảnh trăng cuối rừng"... của nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng đã nhiều lần vào đề thi.

nguyen-minh-chau.png Nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ảnh: Tư liệu.

Từ người lính nhút nhát đến nhà văn của những trăn trở

Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20/10/1930 tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ít ai biết, tên khai sinh của ông là Nguyễn Thí, chỉ đến khi đi học mới được đổi thành Minh Châu.

Trái ngược với hình ảnh một nhà văn có tư tưởng sắc sảo, đi trước thời đại, nhà văn Nguyễn Minh Châu ngoài đời lại là một người vô cùng khiêm tốn, thậm chí rụt rè. Trong những ghi chép cuối đời, ông tự họa chân dung mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát... Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ".

z6743451528684-5bd1b39221abc70611a0f8c7341adaca.jpg
z6743451528777-b018706506d526c4378c6a7b862e8df5.jpg Đề thi môn Ngữ văn Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025.

Sự điềm đạm, trầm tư ấy có lẽ đã được hun đúc từ chính cuộc đời nhiều biến động của ông. Giống như nhiều nhà văn cùng thế hệ như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu là người “cầm súng trước khi cầm bút”.

Năm 1950, sau khi học xong chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng, ông gia nhập quân đội, bắt đầu chặng đường gần 40 năm gắn bó với màu áo lính. Ông kinh qua nhiều vị trí, từ công tác ở ban tham mưu sư đoàn 320, trợ lý văn hóa trung đoàn, cho đến khi chuyển về tạp chí Văn nghệ Quân đội vào năm 1962.

Con đường đến với văn chương của ông khá muộn. Truyện ngắn đầu tay được in khi ông đã 30 tuổi và có 10 năm trong quân ngũ. Nhưng chính mười năm trải nghiệm sương gió chiến trường, sống và chiến đấu cùng đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân đã trở thành vốn sống vô giá, là mảnh đất hiện thực màu mỡ cho những trang viết của ông sau này.

Những người bạn văn đều nhận thấy, đằng sau vẻ ngoài có phần dè dặt ấy là một nội tâm luôn sục sôi những ưu tư, trăn trở về con người và thời cuộc. Ông có một niềm tin vững chắc và một ý chí kiên định với con đường mình đã chọn, một “sự dũng cảm rất điềm đạm” để đối diện với mọi thách thức.

Sự thống nhất của hai "vùng trời" sáng tác

Nhìn vào sự nghiệp văn chương đồ sộ của nhà văn Nguyễn Minh Châu với hàng loạt tiểu thuyết, tập truyện ngắn như “Cửa sông”, “Dấu chân người lính”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Mảnh trăng cuối rừng”…, người đọc có thể thấy rõ hai chặng đường sáng tác tương ứng với hai giai đoạn lịch sử của đất nước.

Giai đoạn trước năm 1975, các sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu chủ yếu tập trung vào đề tài chiến tranh và người lính, thể hiện qua các tác phẩm như "Cửa sông", "Những vùng trời khác nhau", và "Dấu chân người lính". Ông viết với tư cách một nhà văn chiến sĩ, xem ngòi bút là một công cụ phục vụ kháng chiến.

Các tác phẩm của ông thời kỳ này tập trung ngợi ca vẻ đẹp của người lính, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. “Những vùng trời khác nhau” (1970) – tác phẩm vừa xuất hiện trong đề thi – là một ví dụ tiêu biểu.

Truyện ngắn khắc họa vẻ đẹp trong trẻo, cao cả của tình đồng đội giữa Lê và Sơn, hai người lính pháo binh đến từ hai miền quê khác nhau. Họ có thể ban đầu xa lạ, thậm chí có ấn tượng không tốt về nhau, nhưng chính hiện thực khốc liệt của chiến tranh và lý tưởng chung đã tôi luyện họ, biến họ thành tri kỷ. Phút chia tay của họ, một người ở lại Nghệ An, một người ra Hà Nội, không bi lụy mà thấm đẫm niềm tin vào tương lai, vào ngày chiến thắng. Đó là vẻ đẹp của con người trong “bầu không khí vô trùng”, nơi lý tưởng được đặt lên trên hết.

Sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn này giống như một người đi đãi cát tìm vàng, “gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.

Giai đoạn sau 1975, nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những người đầu tiên dũng cảm chuyển hướng ngòi bút từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự - đời tư, đối diện trực diện với hiện thực đời thường đa chiều, phức tạp.

Nếu trước kia ông tìm “hạt ngọc”, thì giờ đây ông nhận ra con người vốn phức tạp, đa đoan. Ông viết: “Bên trong mỗi con người đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”.

Tuy nhiên, xuyên suốt là một tư tưởng nhất quán. Nếu trước đây, ông là nhà văn – chiến sĩ “chiến đấu cho quyền sống của dân tộc”, thì sau này, ông chuyển sang “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người”.

Cảm hứng sử thi trước 1975 hướng ông đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu” trong tâm hồn những con người lý tưởng, anh hùng nhưng vẫn gắn bó với đời thường. Sau chiến tranh, cảm hứng thế sự lại đưa ông đi sâu khám phá những số phận gai góc, đa đoan. Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận ra con người vốn phức tạp, bên trong tồn tại cả phần sáng và phần tối, cái thiện và cái ác.

Để làm được điều đó, nhà văn đã tự “cởi trói” cho ngòi bút khỏi lối tư duy phân tuyến rạch ròi đen – trắng, tốt – xấu của một thời. Nhân vật của ông không còn là hình mẫu, mà là những con người biết dằn vặt, tự phán xét trong “phiên tòa lương tâm”. Đó là người họa sĩ ân hận vì lời hứa suông (Bức tranh), hay vị chỉ huy day dứt vì phút nóng nảy đẩy người lính vào chỗ chết (Cỏ lau). Họ có thể không phạm pháp, nhưng lại mang tội với đạo đức và lương tri.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, không nên xem nhà văn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 là hai con người quay lưng lại nhau. Đó vẫn là một nhà văn – chiến sĩ dũng cảm, với sự chuyển hướng tất yếu từ lý tưởng cộng đồng sang những trăn trở về thân phận cá nhân. Sự thức tỉnh này đã manh nha từ rất sớm. Ngay cuối những năm 60, ông đã viết: “Bây giờ, ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người... Chính cuộc chiến đấu ấy mới thật lâu dài”.

Di sản của một trái tim yêu thương con người

Sự chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy nghệ thuật đã khiến nhà văn Nguyễn Minh Châu trở thành một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Nhưng dù viết về chiến tranh hay thời bình, dù khắc họa vẻ đẹp lý tưởng hay phơi bày hiện thực trần trụi, thì điểm cốt lõi, tâm điểm trong mọi trang viết của ông vẫn luôn là CON NGƯỜI. Ông từng quan niệm: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm - mà tâm điểm là con người”.

Ông viết về con người bằng tất cả tình yêu thương, sự trăn trở và xót xa. Tình yêu thương ấy không phải là sự ca ngợi một chiều, mà là sự thấu cảm sâu sắc trước những nỗi đau, những éo le và cả những góc khuất trong tâm hồn họ. Ông tâm sự: “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người... Cần giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời”.

Chính cái nhìn đầy nhân ái và sâu sắc này đã làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Châu. “Những vùng trời khác nhau” hay “Chiếc thuyền ngoài xa” dù ra đời cách nhau hơn một thập kỷ, trong hai bối cảnh lịch sử khác biệt, vẫn tiếp tục lay động người đọc bởi chúng chạm đến những giá trị phổ quát: tình bạn, lòng vị tha, sự hy sinh, nỗi đau thân phận, và khát vọng hạnh phúc.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu qua đời năm 1989 vì căn bệnh ung thư máu, khi mới 59 tuổi, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho nền văn học nước nhà. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Di sản ông để lại không chỉ là những tác phẩm văn chương giá trị, mà còn là tư thế của một nhà văn chân chính: luôn trăn trở, luôn tìm tòi và dũng cảm đối diện với sự thật bằng một trái tim nhân hậu.

Việc tác phẩm của ông liên tục được lựa chọn trong các kỳ thi quan trọng cho thấy, những “vùng trời” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khám phá vẫn luôn rộng mở, chờ đợi những thế hệ độc giả mới đến và suy ngẫm.

  • Gần 30 năm cầm bút, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để lại một gia tài văn chương đáng kể, trải rộng trên nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến bút ký, phê bình:
    • Cửa sông (tiểu thuyết), NXB Văn học, 1967
    • Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn), NXB Văn học, 1970
    • Dấu chân người lính (tiểu thuyết), NXB Thanh Niên, 1972
    • Giã từ tuổi thơ (tiểu thuyết), NXB Kim Đồng, 1974
    • Miền cháy (tiểu thuyết), NXB Quân đội Nhân dân, 1977
    • Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết), NXB Văn học, 1977
    • Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết), NXB Kim Đồng, 1981
    • Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết), NXB Quân đội Nhân dân, 1982
    • Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn), NXB Tác Phẩm Mới, 1983
    • Mảnh trăng cuối rừng (tập truyện ngắn), NXB Văn học, 1984
    • Trang giấy trước đèn (phê bình – tiểu luận), NXB Khoa học Xã hội, 2002
    • Nơi rừng yên tĩnh (tập bút ký, in chung với Hồ Phương), NXB Quân đội Nhân dân, 1981
Xem bản gốc