Những tranh luận sôi nổi gần đây về việc biên soạn sách giáo khoa và chủ trương xã hội hóa đã tạo ra không ít hoang mang trong dư luận, đặc biệt là với phụ huynh và các nhà giáo. Giữa những luồng ý kiến trái chiều, câu hỏi về định hướng cho nền giáo dục nước nhà, liệu có tiếp tục Chương trình 2018 hay không, vẫn còn bỏ ngỏ.

Với kinh nghiệm của một nhà giáo đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử của giáo dục Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông, đã có những trao đổi thẳng thắn và sâu sắc, bày tỏ quan điểm của mình xung quanh vấn đề này.
Cuộc cách mạng tư tưởng là tiên quyết
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt cho rằng, vấn đề cốt lõi, nền tảng của mọi cuộc cải cách, đó là vấn đề tư tưởng. Đây là một vấn đề được thảo luận xuyên suốt qua nhiều kỳ Đại hội. Vì thế, có rất nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng từng coi cách mạng tư tưởng là vấn đề tiên phong, còn cách mạng Khoa học Kỹ thuật là then chốt.
"Ai cũng biết, tư tưởng không thông, nhận thức không rõ thì bất cứ việc thực hiện chủ trương nào cũng khó thành công. Đôi khi thực hiện nửa vời lại đem đến những hậu quả vô cùng tác hại," ông nói.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, sự nghiệp Đổi mới của đất nước không thể thành công nếu tư tưởng vẫn còn "nhập nhằng, nửa đi nửa ở". Đặc biệt với ngành giáo dục, mọi sự do dự, nửa vời sẽ dẫn đến những tổn thất to lớn cả về tài chính quốc gia lẫn ý chí quyết tâm. Nếu cứ mãi luẩn quẩn, chúng ta sẽ lại trở về vạch xuất phát của nhiều thập kỷ trước.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều người lưu luyến với tư duy quản lý của thời bao cấp. Dù mô hình này đã phát huy tác dụng trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng nó không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại.
Thời kỳ học sinh phải thuộc SGK làu làu như Kinh thánh
PGS Nguyễn Hữu Đạt cho hay, trước đây, cả nước ta chỉ có một bộ SGK duy nhất, được xây dựng trên nền tảng của khối Xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô (cũ). Môn Văn học đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tư tưởng con người, tập trung vào hai chủ đề chính: đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về đề tài đấu tranh thống nhất đất nước, nền giáo dục đã rất thành công trong việc đào tạo nên một thế hệ yêu nước, sẵn sàng chiến đấu hy sinh. Văn học đã tạc nên những tượng đài lý tưởng như Nguyễn Viết Xuân, Lê Mã Lương, Chị Út Tịch, Nguyễn Văn Trỗi... Tuy nhiên, về phương pháp, việc dạy và học mang nặng tính công thức. Các kỳ thi tốt nghiệp hay tuyển sinh đại học chủ yếu xoay quanh khái niệm "vừa hồng vừa chuyên", một khái niệm khá xa lạ với học sinh ngày nay.
"Có thể nói, tất cả các học sinh phải học thuộc SGK làu làu như kinh thánh, khi đi thi, chỉ cần lắp ráp các ví dụ vào là đạt yêu cầu. Đó là sản phẩm của bao cấp, tất cả ăn sẵn, không đòi hỏi năng lực tư duy”, PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt phân tích.
PGS Đạt dẫn chứng bằng những đề thi quen thuộc thời đó, ví dụ như yêu cầu phân tích một đoạn thơ của Tố Hữu (như “Má thét lớn lũ bay đò chó, cướp dân ta cắt cố dân tao…”) và dùng thực tiễn văn học từ Kháng chiến chống Pháp đến nay để chứng minh.
Đã có lần trong các buổi thảo luận chấm thi, ông đề nghị thay đổi cách ra đề vì cho rằng có những đoạn thơ được chọn mang nặng tính khẩu hiệu, ít giá trị nghệ thuật.
Về mảng đề tài xây dựng CNXH, SGK và các đề thi thường tập trung ca ngợi công cuộc cải cách ruộng đất, không khí lao động ở các nông trường, hợp tác xã qua các tác phẩm như "Tầm nhìn xa" (Nguyễn Khải), "Đoàn thuyền đánh cá" (Huy Cận)... Nhưng với trải nghiệm cá nhân, PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt nhận thấy một khoảng cách lớn giữa văn chương và thực tế.
"Đó là các dịp tôi nghỉ hè tham gia lao động ở HTX quê mình. Làm cật lực một ngày mà công tính ra chỉ được 2,1 lạng thóc, có khi chỉ có 1,7 lạng. Với thu hoạch như thế thì ăn chưa đủ một bữa”, ông nhớ lại. Nhiều nhà đói dài, có lúc phải ăn cháo hoặc chuối xanh thay cơm. Đọc báo chí, ông mới biết thêm việc xảy ra với ông Kim Ngọc, bí thư tỉnh Vĩnh Phú (cũ), hóa ra, các nơi đều như nhau cả.
Từ thực tế này khiến ông nhận ra rằng, văn học trong SGK thời đó đôi khi phản ánh những điều xa vời đời sống, trong khi mảng viết về chiến tranh lại chân thực và có sức sống lâu bền hơn.
Sự rập khuôn trong tư duy còn thể hiện qua công thức ôn thi Văn mà nhiều thế hệ truyền tai nhau: "Yêu, căm, chiến, đại, Pha, Phèo, Dậu". Công thức này gói gọn toàn bộ chương trình, từ lòng yêu nước, căm thù giặc, đến tinh thần chiến đấu và hình ảnh các nhân vật nông dân điển hình. Theo ông, đây là minh chứng rõ ràng cho một nền giáo dục thiếu sự sáng tạo, thậm chí có phần phiến diện khi xếp những tác giả như Vũ Trọng Phụng vào loại dung tục, nhảm nhí.
“Nay nói về đổi mới SGK, ta không thể bỏ qua cả cái quá khứ đã thành lịch sử ấy để rút ra những bài học”, PGS Nguyễn Hữu Đạt nói.
Ưu việt của mô hình "một chương trình, nhiều bộ SGK"
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, nhìn vào các thế hệ lãnh đạo tiền bối, có thể thấy sự ưu việt của chương trình giáo dục có nhiều sách giáo khoa.
Chẳng hạn, thế hệ những nhà cách mạng như Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp... hay các trí thức lớn như Ngụy Như Kon Tum, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di... đều được đào tạo theo chương trình giáo dục có nhiều bộ sách. Tuy được đào tạo theo chương trình giáo dục của thực dân Pháp phục vụ cho mục đích thực dân, nhưng nhờ bối cảnh chung của nền giáo dục có nhiều bộ SGK, họ đã trở thành những con người có tinh thần dân tộc sâu sắc, có tư duy độc lập và những nhà lãnh đạo tài năng, đức độ.
"Tất cả những điều ấy cho ta một sự thực về tính ưu việt của cách giáo dục một chương trình nhiều bộ SGK”, ông khẳng định. Theo ông, kiểu giáo dục một bộ SGK duy nhất chỉ thích hợp với thời chiến, trong bối cảnh thế giới lưỡng cực. Ngày nay, khi Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ, làm bạn với tất cả các quốc gia, việc quay trở lại mô hình cũ rõ ràng là không còn phù hợp.
Chính vì nhận ra những hạn chế đó, sau một quá trình nghiên cứu và thí điểm, Đảng và Nhà nước đã quyết sách triển khai Chương trình Giáo dục 2018. Đây là một bước đi tất yếu của lịch sử. Chương trình này đã mở đường cho xã hội hóa giáo dục, đặc biệt là xã hội hóa biên soạn SGK.
Những điểm sáng của Chương trình 2028 có thể nhìn thấy rõ. Đó là giúp đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy được tính chủ động, sáng tạo cho cả giáo viên và học sinh.
Thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo viên: Đội ngũ nhà giáo phải không ngừng đổi mới, nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu.
Huy động nguồn lực xã hội: Giúp nhà nước tiết kiệm chi phí lớn nhờ vai trò của các doanh nghiệp, tạo sức mạnh tổng hợp để nâng tầm giáo dục.
Còn về an ninh tư tưởng, chính trị, tuy chưa có ai nêu ý kiến phân vân nhưng cũng cần khẳng định để mọi người yên tâm là toàn bộ SGK đều phải được các hội đồng thẩm định xem xét kỹ lưỡng trước khi thông qua để Bộ trưởng Bộ GDĐT phê duyệt trước khi được xuất bản và sử dụng.
"Không còn nghi ngờ gì khi khẳng định Chương trình 2018 đã thay đổi và đang đem lại nhiều hiệu ứng tích cực cho phát triển giáo dục”, ông Đạt khẳng định.
Điều đó, theo ông Đạt, có thể kiểm chứng qua các đề thi tốt nghiệp cũng như các đề thi kiểm tra, đánh giá năng lực tuyển vào đại học. Đọc các bài thi của thế hệ được đào tạo từ chương trình sẽ nhận ra ngay sự tiến bộ rất đáng kể về trình độ tư duy, khả năng phát hiện vấn đề và năng lực sáng tạo của học sinh. Thực sự, đất nước chúng ta đang có một thế hệ mới hình thành với nhưng tiềm năng rất đáng tin cậy.
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt thừa nhận, quá trình triển khai Chương trình 2018 không phải không có thiếu sót, đặc biệt là những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh đã gây ra lo ngại cho xã hội. Tuy nhiên, ông cho rằng đó là những vấn đề trong quá trình thực thi, không phải là sai lầm của chủ trương.
Con đường "một chương trình, nhiều bộ SGK" là lựa chọn chính đáng và khoa học nhất. Trở lại giáo dục kiểu một bộ sách giáo khoa duy nhất với cái tên là “SGK chuẩn” sẽ trái với thực tiễn. Điều cần làm lúc này không phải là quay đầu, mà là tăng cường quản lý việc xã hội hóa biên soạn SGK, kiên quyết loại bỏ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
"Bởi chính đây mới là gốc rễ gây ra các tình trạng mất phương hướng trong lĩnh vực này. Đó là cách duy nhất để giáo dục Việt Nam thoát khỏi tình trạng luẩn quẩn, bất ổn và đáp ứng được sự mong mỏi của toàn dân”, ông nhấn mạnh.
Mới đây, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đã có trả lời ý kiến của cử tri một số tỉnh gửi đến trước kỳ họp thứ 9 của Quốc hội. Trong đó, có ý kiến của cử tri tỉnh Hưng Yên đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo có bộ sách giáo khoa chung áp dụng cho học sinh trên cả nước cho phù hợp với điều kiện thực tế xã hội hiện nay.
Bộ trưởng nêu rõ, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã quy định chi tiết nội dung, yêu cầu cần đạt đối với từng nội dung giáo dục.
Sách giáo khoa khác nhau chỉ khác ở ngữ liệu, cách thức thể hiện và phương pháp dạy học đối với từng nội dung nhưng phải đáp ứng yêu cầu cần đạt được của chương trình.
Do đó khi học sinh dùng sách giáo khoa khác nhau cũng không bị ảnh hưởng về nội dung kiến thức và yêu cầu cần đạt.