Theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngày 6/8/2025, tại tỉnh Nghệ An, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Hội Làm vườn Việt Nam, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An tổ chức Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ”.
DỨA TRỞ THÀNH CÂY PHÙ HỢP NHẤT Ở BẮC TRUNG BỘ
Với hơn 40 năm kinh nghiệm trong ngành nông nghiệp, PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ), Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, cho rằng Bắc Trung Bộ, dù thiên nhiên khắc nghiệt, vẫn là vùng đất giàu tiềm năng nếu biết cách khai thác.
Theo ông Doanh, với hàng triệu ha đất nông lâm nghiệp, Bắc Trung Bộ từ lâu được xác định là vùng trọng điểm trong chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia. Riêng với 3 loại cây trồng chủ lực, gồm dứa, chè, cây có múi, khu vực có tổng diện tích hơn 28.600 ha, sản lượng hằng năm đạt 400.000 tấn.

“Vùng đất Nghệ An và một số tỉnh lân cận có điều kiện lý tưởng để phát triển cây dứa, nhất là giống MD2. Trời càng khô, dứa càng chất lượng. Cây chịu hạn giỏi, bão vào cũng không đổ, canh tác gần như hữu cơ, dứa không chỉ phù hợp với điều kiện tự nhiên mà còn có tiềm năng lớn về thị trường”, ông Doanh nhận định.
Trái với đà đi lên của cây dứa, khi đề cập về cây có múi, ông Lê Quốc Doanh cho hay cam, quýt, bưởi từng là thế mạnh của Bắc Trung bộ, lại đang suy giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu đến từ dịch bệnh và giống thoái hóa. Bệnh Greening (vàng lá gân xanh) đã được xác định là thủ phạm chính, khiến nhiều vườn cam, quýt bị phá bỏ trong những năm gần đây.
Trình bày báo cáo chuyên sâu tại Diễn đàn, TS. Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO), cho biết ngành dứa Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành mặt hàng nông sản chủ lực, mang lại giá trị kinh tế cao.

“Các chuyên gia chỉ ra rằng, dứa là một mặt hàng có giá trị cao, đặc biệt khi được chế biến sâu, giúp nâng cao đáng kể giá trị xuất khẩu. Thị trường dứa toàn cầu đang tăng trưởng 5-6% mỗi năm, với nhu cầu về các sản phẩm chế biến như nước ép và dứa đóng hộp tăng mạnh”, ông Khuê thông tin.
Việt Nam hiện đang canh tác ba giống dứa phổ biến: Queen, Cayenne và MD2. Trong đó, giống dứa MD2, với năng suất và chất lượng vượt trội, chiếm tới 50-55% thị phần dứa toàn cầu và 70-75% thị phần tại thị trường châu Âu.
"Báo cáo phân tích chi tiết hiệu quả kinh tế của việc trồng dứa trên quy mô 1 ha trong chu kỳ 18 tháng, cho thấy lợi nhuận từ cây dứa cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác. Cụ thể, lợi nhuận của dứa MD2 có thể lên tới hơn 700 triệu đồng/ha, cao hơn gấp nhiều lần so với cây lúa, sắn và keo", ông Khuê khẳng định.
"Trong bức tranh toàn cầu, sản lượng dứa thế giới đã tăng trưởng ổn định, đạt gần 30 triệu tấn vào năm 2024. Việt Nam, với sản lượng 760.000 tấn vào năm 2024, đã khẳng định vị thế của mình, xếp thứ 11 thế giới về sản lượng".
TS. Đinh Cao Khuê - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty DOVECO.
Không chỉ có khả năng cung ứng lớn, cây dứa còn tỏ ra vượt trội ở khía cạnh thích ứng biến đổi khí hậu. Theo ông Khuê, đây là loại cây có sức sống bền bỉ, chịu hạn tốt, phù hợp với nhiều loại đất và điều kiện khắc nghiệt. Do đó, việc phát triển vùng nguyên liệu dứa không chỉ phục vụ xuất khẩu mà còn góp phần ổn định sinh kế cho người dân trong bối cảnh thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng.

Ông Khuê cho biết thêm, DOVECO là doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản lớn, với các nhà máy hiện diện ở nhiều địa phương như Ninh Bình, Gia Lai, Sơn La. Hiện DOVECO đẩy mạnh xuất khẩu dứa đóng hộp, nước ép, dứa đông lạnh sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Nga và Hoa Kỳ. Nếu có thể đặt nhà máy tại Nghệ An, trung tâm vùng Bắc Trung bộ, thì mỗi năm đơn vị có thể thu mua dứa từ 30.000 đến 40.000 ha, tạo động lực lớn cho người dân mở rộng diện tích và đầu tư sản xuất.
CẦN GẮN CHẶT CHUỖI SẢN XUẤT VỚI KHOA HỌC VÀ CHẾ BIẾN
Mặc dù có nhiều lợi thế về khí hậu và thổ nhưỡng, ngành dứa Việt Nam vẫn đối mặt với những điểm yếu và thách thức. Báo cáo chỉ ra rằng diện tích trồng các giống dứa chất lượng cao như Cayenne và MD2 còn thấp, chuỗi liên kết sản xuất yếu, và thương hiệu dứa Việt chưa có vị thế nổi bật trên thị trường quốc tế.
Để giải quyết những vấn đề này, ông Khuê đã đề xuất một số giải pháp trọng tâm, trong đó quy hoạch các vùng trồng dứa tập trung, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào khâu chọn giống năng suất cao và cơ giới hóa sản xuất. Đồng thời, cần đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ chế biến sau thu hoạch để sản xuất các sản phẩm như nước ép, dứa đóng hộp, và dứa đông lạnh.

Ông Nguyễn Đức Cường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, cho biết Thanh Hóa hiện có 4.000 ha dứa, sản lượng khoảng 60-70 nghìn tấn mỗi năm. Khi được bổ sung các giống mới triển vọng, năng suất sẽ còn tiếp tục tăng. Riêng vùng cây ăn quả có múi hiện tỉnh có khoảng 4.800 ha, tỉnh tập trung chủ yếu vào cam và bưởi. Đáng chú ý, sản xuất vải không hạt là điểm mới của Thanh Hóa với sản lượng lên tới 600 kg/vụ và đã bước đầu thâm nhập thị trường Nhật Bản trong năm nay.
Tuy nhiên, theo ông Cường, hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản tại Thanh Hóa hiện còn nhiều điểm hạn chế. Các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào các cây dứa, chè và cây ăn quả vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún. Trước những khó khăn đó, tỉnh đã ban hành Nghị quyết 185/2021/NQ-HĐND một phần nhằm hỗ trợ phát triển cây ăn quả và các loại cây trồng chủ lực.
Trong giai đoạn 2026–2030, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa sẽ tham mưu UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách chuyên biệt cho toàn ngành nông nghiệp - môi trường tại Thanh Hóa. Để đi sâu và bền vững vào các thị trường xuất khẩu, cần gắn chặt chuỗi sản xuất với khoa học công nghệ, chế biến sâu và xây dựng thương hiệu.
“Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa hiện đang triển khai bản đồ thổ nhưỡng, với kế hoạch hoàn thành đánh giá đất đai tại 66 xã trong năm 2025, tiến tới phủ đủ 100 xã còn lại vào năm 2026, nhằm xác định cây trồng phù hợp và nâng cao hiệu quả sản xuất”, ông Cường thông tin.

Ông Nguyễn Văn Đệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, cho hay trong quy hoạch sản xuất cây ăn quả đến năm 2030, Nghệ An dành khoảng 8.600 ha đất cho trồng cam. Người dân nơi đây vốn có kinh nghiệm và truyền thống lâu năm trong canh tác cam, tạo nền tảng vững chắc để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng.
Đối với cây chè, tỉnh hiện có khoảng 8.700 ha diện tích trồng và trong quy hoạch đến năm 2030 sẽ mở rộng lên 15.000 ha, khai thác tối đa thế mạnh của vùng.

Đối với cây dứa, Nghệ An hiện trồng gần 1.800 ha nhưng thực tế có sẵn tới 5.000 ha đất phù hợp để sản xuất. Trong quy hoạch đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 13.800 ha.
“Tuy nhiên, ngành hàng chè và dứa của Nghệ An vẫn gặp khó khăn ở khâu chế biến và mở rộng thị trường trong nước cũng như xuất khẩu”, ông Đệ chia sẻ; đồng thời, ông Đệ bày tỏ mong muốn mời gọi các doanh nghiệp đến hợp tác, phát triển các ngành hàng này.
Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho hay theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đến năm 2030, tổng diện tích trồng dứa dự kiến khoảng 60.000 ha. Tuy nhiên, trước nhu cầu phát triển mạnh loại cây này, chắc chắn cần có sự điều chỉnh, cùng với những chương trình định hướng bài bản để biến dứa thành nông sản chủ lực, đóng góp vào tăng trưởng GDP và thúc đẩy xuất khẩu.