Hỗ trợ nội dung miễn phí

Chúng tôi sử dụng quảng cáo để giữ cho nội dung của chúng tôi miễn phí cho bạn. Vui lòng cho phép quảng cáo và để các nhà tài trợ tài trợ cho việc lướt web của bạn.
Cảm ơn bạn!

Cách phòng ngừa thiếu máu hiệu quả

Khoa học và đời sống 3 Giờ trước

Theo thống kê, thiếu máu thiếu sắt là loại thiếu máu phổ biến nhất trên toàn cầu, ảnh hưởng đến khoảng 1,62 tỷ người, chiếm khoảng 24,8% dân số thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở các nước đang phát triển và ở những nhóm dân cư dễ bị tổn thương như trẻ em tuổi dậy thì và phụ nữ mang thai.

Sắt là một trong những chất vi lượng có vai trò quan trọng bậc nhất có mặt trong hầu hết các tổ chức của cơ thể như: Trong hemoglobin (Hb), myoglobin và một số enzym. Sắt tham gia các quá trình chuyển hóa như vận chuyển ôxy, tổng hợp DNA, vận chuyển electron...

Ở người bình thường, 90-95% lượng sắt trong cơ thể được tái sử dụng từ nguồn sắt do hồng cầu già bị phá hủy và giải phóng ra, có 5 - 10% (1-2mg) lượng sắt được bài tiết ra ngoài cơ thể. Để bù lại lượng sắt mất đi, cơ thể nhận thêm sắt từ thức ăn, quá trình hấp thu sắt diễn ra chủ yếu ở dạ dày, hành tá tràng và đoạn đầu hỗng tràng.

Dấu hiệu nhận biết thiếu máu, thiếu sắt

Người bị bệnh thiếu máu, thiếu sắt thường có triệu chứng da xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt, lưỡi nhợt, nhẵn do mất hoặc mòn gai lưỡi, lông, tóc, móng khô dễ gãy. Người bệnh cảm thấy mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt khi thay đổi tư thế, tức ngực, giảm khả năng hoạt động thể lực và trí lực.

Ảnh minh họa/Nguồn Internet

Về mặt triệu chứng lâm sàng, bệnh thiếu máu thiếu sắt diễn biến từ từ qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Chỉ giảm sắt dự trữ nên người bệnh chưa bị thiếu máu, thường có một số triệu chứng của nguyên nhân gây thiếu sắt.

Giai đoạn 2: Đã cạn sắt dự trữ và giảm sắt vận chuyển, người bệnh chưa có biểu hiện rõ tình trạng thiếu máu, có triệu chứng của nguyên nhân gây thiếu sắt; bắt đầu có triệu chứng của thiếu sắt như: mất tập trung, mệt mỏi...

Giai đoạn 3: Thiếu máu và thể hiện là có cả triệu chứng của thiếu máu và thiếu sắt. Tuy nhiên, ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng.

Nguyên nhân gây bệnh

Có 4 nhóm nguyên nhân có thể dẫn đến bệnh thiếu máu, thiếu sắt. Trong đó, thiếu sắt trong chế độ ăn uống do không cung cấp đủ sắt từ thực phẩm như thịt, cá, trứng, và rau xanh.

Nguyên nhân mất máu phổ biến nhất là kinh nguyệt kéo dài hoặc băng kinh ở phụ nữ độ tuổi sinh đẻ, chảy máu đường tiêu hóa (trĩ, loét dạ dày chảy máu, chảy máu chân răng hay chảy máu cam kéo dài…). Khả năng hấp thu sắt kém có nguyên nhân chủ yếu do các bệnh lý đường ruột như bệnh celiac, hoặc sau phẫu thuật cắt bỏ dạ dày, ruột.

Ảnh minh họa/Nguồn Internet

Những nhóm người có nguy cơ mắc chứng thiếu máu, thiếu sắt bao gồm: Phụ nữ. đặc biệt là phụ nữ mang thai, phụ nữ có kinh nguyệt nhiều; trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trẻ em tuổi dậy thì có nhu cầu sắt cao để phát triển; người già thường có thể có chế độ ăn uống thiếu hụt sắt (hạn chế ăn thịt do vấn đề răng miệng), hoặc gặp khó khăn trong việc hấp thu sắt.

Người có bệnh lý mãn tính như bệnh viêm loét đại tràng, hoặc bệnh lý về thận cũng có nguy cơ thiếu máu, thiếu sắt. So về giới tính, phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với nam giới vì phụ nữ bị mất máu qua kinh nguyệt và nhu cầu sắt tăng trong thai kỳ.

Các biến chứng của bệnh

Tình trạng thiếu máu thiếu sắt nhẹ thường không gây ra biến chứng. Tuy nhiên, nếu không được chữa trị, bệnh thiếu máu- thiếu sắt nặng và kéo dài có thể trở nên trầm trọng dẫn đến các vấn đề sức khỏe, bao gồm:

Tim mạch: Thiếu máu thiếu sắt có thể dẫn đến nhịp tim nhanh hoặc bất thường. Tim phải bơm máu nhiều hơn để bù đắp cho sự thiếu oxy máu khi đang bị thiếu máu lâu dần có thể dẫn tới suy tim.

Thai sản: Thiếu máu tăng nguy cơ đẻ non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con.

Tăng trưởng và trí tuệ: Thiếu máu thiếu sắt có thể gây ra sự chậm phát triển về thể chất và trí tuệ ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trẻ chậm biết nói, biết đi; khả năng tư duy và nhận thức của não bộ đều bị giảm sút dẫn tới kém tập trung, khó nhớ, mau quên.

Cách phòng ngừa thiếu máu, thiếu sắt

Để phòng ngừa bệnh, chúng ta nên lựa chọn chế độ ăn uống hợp lý. Cụ thể, bổ sung thực phẩm giàu sắt như thịt đỏ, gan, hải sản, rau xanh (rau họ cải), đậu, và ngũ cốc nguyên hạt. Sử dụng thực phẩm giàu vitamin C, kết hợp với bữa ăn giúp tăng cường hấp thu sắt. Tránh sử dụng các chất ức chế hấp thu sắt như trà, cà phê trong bữa ăn. Phụ nữ mang thai nên bổ sung sắt theo hướng dẫn của bác sĩ.

Nếu không may bị thiếu máu, thiếu sắt, người bệnh điều chỉnh chế độ ăn: Bổ sung thực phẩm giàu sắt và vitamin C. Trong trường hợp cần thiết có thể bổ sung sắt bằng cách dùng viên sắt hoặc các dạng bổ sung sắt qua đường uống hoặc truyền (đường truyền chỉ dùng tại cơ sở y tế vì nguy cơ dị ứng hoặc phản vệ) và phải có chỉ định của bác sĩ.

Truyền máu chỉ được sử dụng trong trường hợp thiếu máu thiếu sắt nghiêm trọng hoặc việc bổ sung sắt không hiệu quả. Tuy nhiên, chúng ta cần tìm hiểu và điều trị nguyên nhân gốc rễ. Ví dụ như điều trị các bệnh lý gây mất máu hoặc khả năng hấp thu sắt kém.

Người dân nên kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng - 1 năm/lần; Người dân không nên tự ý bổ sung sắt, trừ khi có chỉ định của bác sĩ, vì thừa sắt cũng có thể gây hại cho sức khỏe. Khi có dấu hiệu mệt mỏi, da xanh xao, hoặc các triệu chứng nghi ngờ khác, nên đi khám và tư vấn kịp thời.

Xem bản gốc